Thêm một số tài liệu về danh xưng Tương Dương

Vài nét về lịch sử cải cách hành chính ở Việt Nam

Xuyên suốt tiến trình lịch sử các dân tộc, việc xác định địa giới hành chính và tên gọi các vùng lãnh thổ hết sức quan trọng. Việc cắt đặt lãnh thổ và tên gọi các đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ quốc gia phục vụ đắc lực cho quá trình quản lý và điều hành của chính quyền các cấp. Đây còn là sự phân biệt vừa tương đối, vừa rạch ròi giữa các vùng miền, cộng đồng dân cư với những nét đặc trưng về kinh tế, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên…

Việc tổ chức, sắp xếp và đặt danh xưng cho đơn vị hành chính các cấp có nhiều sự thay đổi qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Điều này tuỳ thuộc vào sự biến động bởi bối cảnh đương thời để phù hợp với thực tiễn. Ở Việt Nam, với lịch sử hơn 25000 năm lập quốc song hành vệ quốc, sự phân chia và đặt tên cho các địa phương cũng trải qua nhiều lần đổi khác.

Từ thời các vua Hùng dựng nước, quốc hiệu cũng có sự thay đổi từ Văn Lang, Âu Việt, Lạc Việt đến Âu Lạc… Khi chính quyền phong kiến phương Bắc đô hộ, các triều đại đô hộ phương Bắc từng thực hiện nhiều đợt cải cách tên gọi lãnh thổ nước ta cũng như sắp xếp, đặt tên cho các đơn vị hành chính cấp dưới. Các triều đại phong kiến độc lập tự chủ Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc đến triều Tây Sơn, Nguyễn cũng thực hiện nhiều cuộc cải cách hành chính khác nhau. Khi người Pháp đô hộ Việt Nam, họ cũng có nhiều chính sách cải cách hành chính. Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất năm 1975, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp dành nhiều sự quan tâm, nghiên cứu để thực hiện cải cách hành chính cho hiệu quả và phù hợp nhất.

Anh-tin-bai

Ngày 12/1, Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và UBND huyện Tương Dương đã tổ chức Hội thảo khoa học “Danh xưng Tương Dương".

Dấu ấn lịch sử cải cách hành chính ở Nghệ An

Nghệ An ngày thời các vua Hùng (Thiên niên kỷ I, trước Công nguyên) là vùng đất biên viễn, biên ải của quốc gia Văn Lang. Dến thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương Bắc nhiều lần thay đổi địa giới, tên gọi vùng đất Nghệ An. Trước hết là sáp nhập vùng đất này vào huyện Hàm Hoan, quân Cửu Chân (Cửu Đức). Thời nhà Lương, chia huyện Hàm Hoan làm 3 châu Đức Châu, Minh Châu, Lỵ Châu.

Thời độc lập tự chủ, nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê đều gọi Nghệ An là Hoan Châu. Thời nhà Lý, đổi làm trại, gọi là Nghệ An châu trại. Năm 1030, triều đình bắt đầu đổi tên gọi là châu Nghệ An, riêng vùng đất Diễn Châu cho đứng riêng làm một châu. Sang thời nhà Trần, năm 1357 triều đình chia Hoan Châu làm 4 lộ gồm Nhật Nam, Nghệ An Bắc, Nghệ An Trung và Nghệ An Nam, còn châu Diễn Châu đổi làm lộ.

Thời nhà Nguyễn, ngay năm đầu mới lên ngôi (1801), vua Gia Long liền cho đổi châu Nghệ An làm trấn Nghệ An. Năm 1831, khi thực hiện cuộc cải cách hành chính toàn diện, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An làm 2 tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh, lấy sông Lam làm ranh giới tự nhiên. Sang thời vua Tự Đức, đổi Hà Tĩnh làm đạo và sáp nhập vào Nghệ An năm 1852, lấy tên là An Tĩnh, đến năm 1875 lại chia tách 2 tỉnh như cũ.

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Quốc hội Việt Nam quyết định hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tình thành một tỉnh, lấy tên gọi là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh được chia tách với địa giới hành chính và tên gọi như trước năm 1975.

Hơn 1000 năm lịch sử, vùng đất và danh xưng Nghệ An và Hà Tĩnh thật đặc biệt so với các địa phương cấp tỉnh khác. Suốt chiều dài lịch sử, nhiều người dân bản địa 2 ở 2 tình luôn quan niện “Nghệ như Hà, Hà như Nghệ”, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Bởi hai địa phương này từng trải qua quá nhiều lần tách - nhập, nhập - tách suốt tiến trình lịch sử dân tộc. Hơn nữa, hai tỉnh từng có thời gian dài hàng trăm năm chung một tên gọi nổi tiếng cả nước là Xứ Nghệ, phân biệt rạch ròi với các địa phương tiêu biểu khác như xứ Lạng, xứ Thanh, xứ Huế, xứ Quảng… Nghệ An và Hà Tĩnh còn có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, truyền thống, phong tục…

Về danh xưng, Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng đồng bào Việt Nam với lịch sử hơn 1000 năm Thăng Long, còn Nghệ An cũng có ấn tượng với hơn 990 năm danh xưng “Nghệ An”, được đặt từ thời nhà Lý. Đặc biệt, Diễn Châu là tên gọi được duy lâu đời nhất không chỉ ở Nghệ An mà ở phạm vi cả nước. Danh xưng Diễn Châu chính thức xuất hiện từ thời nhà Đường đô hộ nước ta, cụ thể là năm 627[1], đến nay gần 1400 năm.

Hơn nữa, Diễn Châu tuy lãnh thổ không rộng lớn lắm, nhưng được triều đình phong kiến phương Bắc cũng như các triều đại Việt Nam thực hiện nhiều việc đặc biệt khi cải cách hành chính. Khi nhà Đường đô hộ nước ta, họ đặt vùng đất Diễn Châu ra hẳn một châu. Thời nhà Lý, Diễn Châu cũng được triều đình tách riêng làm một châu, cùng với châu Nghệ An. Gần 1400 năm qua, danh xưng và đại giới hành chính Diễn Châu ít có sự thay đổi hơn nhiều so với các địa phương khác.

Một số địa phương khác ở Nghệ An như Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Chân Lộc, Quỳnh Lưu… từng trải qua không ít lần thay đổi về tên gọi và địa giới hành chính. Mặc dù, đây là những địa phương có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, được xếp vào hạng bậc nhất ở Nghệ An cũng như ở Việt Nam.

Về địa vị, Nghệ An và Diễn Châu được xếp vào nhiều cấp hành chính cao thấp khác nhau. Nghệ An từ châu đến trại, phủ rồi trấn, tỉnh. Riêng Diễn Châu tuy lãnh thổ không rộng lớn nhưng cũng được xếp cấp rất cao là châu, phủ, có khi đặt làm lộ, huyện.

 

Thêm một số tư liệu về danh xưng Tương Dương.

Danh xưng huyện Tương Dương ra đời sau thời Trần, trước thời Nguyễn

Như đã trình bày ở trên, ở Nghệ An có nhiều địa danh được xác định từ rất lâu, từ thời Bắc thuộc hoặc thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý. Tiêu biểu có các huyện ngày nay là Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Chân Lộc, Quỳnh Lưu, Diễn Châu… Song cũng có không ít địa dnah được xác định cụ thể ở giai đoạn sau này, ít nhất là từ thời Trần, Hồ, Lê Trung Hưng, Nguyễn và thậm chí thời Pháp thuộc và quá trình thực hiện đổi mới ở Việt Nam. Một số địa danh có thể kể đến là Quế Phong, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Anh Sơn…

Qua khảo cứu các tư liệu cổ trong và ngoài nước, đặc biệt là các bộ quốc sử: Đại Việt sử kỳ toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử, Đại Nam nhất thống chí, Sử ký… thì danh xưng “Tương Dương” xuất hiện ở gian đoạn sau. Điều này có nghĩa là tên gọi Tương Dương chưa thấy được đề cập đến vào thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Kể các các triều địa phong kiến độc lập tự chủ đầu tiên ở Việt Nam là Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần vẫn chưa có tên gọi địa danh Tương Dương ở Nghệ An.

Tuy vậy, có một điều có thể khẳng định chắc chắn rằng: danh xưng Tương Dương được sử dụng trong bản đồ hành chính Việt Nam muộn nhất là thời Nguyễn, trước cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mệnh (1831). Cở sở kết luận này được chứng minh ở các công trình quốc sử chính thống triều Nguyễn ít nhiều có đề cập đến địa danh Tương Dương.

Trước hết, bộ quốc sử của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí (大南一統志)ghi chép về địa danh Tương Dương như sau: “Huyện Tương Dương: Đông tây cách nhau 76 dặm, nam bắc cách nhau 190 dặm, phía đông đến địa giới huyện Lương Sơn, phủ Anh Sơn 33 dặm, phía tây đến địa giới phủ vĩnh Hòa 43 dặm, phía nam đến địa giới huyện Thanh Chương phủ Anh Sơn 100 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Nghĩa Đường phủ Quỳ Châu 90 dặm”[2]. Đoạn chép về Thành trì ở Nghệ An, các sử gia triều Nguyễn viết rằng: “Thành phủ Tương Dương: thành đắp bằng đất, chu vi 68 trượng, cao 4 thước, mở 3 cửa, ở xã Chính Yên, huyện Tương Dương, trước ở xã Trầm Hương, năm Minh Mệnh thứ 19, dời đến chỗ hiện nay”[3].

Công trình Nghệ An ký (乂安記) do Hoàng giáp Bùi Dương Lịch biên soạn thời vua Gia Long (1802 - 1820) có viết: “Cương vực: Tỉnh Nghệ An, phía nam giáp Quảng Bình, phía Bắc giáp Thanh Hóa, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển. Nam bắc và tây đông đều cách nhau hơn 500 dặm. [Toàn tỉnh] gồm có 9 phủ, 25 huyện và 2 châu. Bốn phủ thanh giáo là… Năm phủ ki mi: I. Phủ Quỳ Châu gồm 2 huyện: Trung Sơn và Thúy Vân; II. Phù Trà Lân gồm 4 huyện: Kỳ Sơn, Hội Ninh, Tương Dương, Vĩnh Khang”[4].

Khi chép về sông ngòi Nghệ An, tác giả Bùi Dương Lịch só đề cập đến địa danh Tương Dương như sau: “Từ phủ Trà Lân, do khe hợp lưu, gọi là sông Hoang Hủy, xuống phía đông, qua các vùng miền núi của huyện Tương Dương và huyện Nam Đàn, làm thành sông Cối. Nguồn này gọi chung là nguồn Tương”[5].

Công trình Thanh Chương huyện chí được tri huyện Thanh Chương là Nguyễn Điển biên soạn đầu triều Nguyễn cũng nhắc đến vùng đất Tương Dương. Cụ thể, địa danh này được tác giả đề cập ngay phần đầu sách, mục Cọi huyện Ông viết: “Cọi bên đông là sông Lam… Cọi bên tây là tiếp núi Tứ Dương, ở địa phận tổng Tử Dương, phủ Tương Dương, cái núi ấy liền lũ một giải”[6].

Một công trình cùng tên Thanh Chương huyện chí do Hoàng giáp Bùi Dương Lịch khảo cứu có ghi: “Sơn trình: Từ ven núi tổng Nam Hoa lên đầu khe núi Thổ Hào đến đầu khe núi Võ Liệt, qua cầu nguồn sông Rộ lên núi Chi Quân đến Sách Lạt Sơn thẳng tới đồn Bồ Lư. Ấy là con đường cũ của vua Lê Duy Mật đến thành Trình Quang đi đến cuối địa giới huyện, giáp Tương Dương”[7].

Như vậy, danh xưng Tương Dương với cấp bậc hành chính là huyện đã có đầu thời nhà Nguyễn. Địa danh Tương Dương còn được đề cập khá nhiều ở các lĩnh vực hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, các công trình của Quốc sử quán triều Nguyễn ở quốc gia Đại Nam,trước khi thực dân Pháp chính thức xâm lược năm 1858.

Về mốc cụ thể ra đời danh xưng huyện Tương Dương

Trở lại công trình Đại Nam nhất thống chí, điểm đáng lưu ý là bộ quốc sử có ghi rõ: “Đời Lê, năm Thuận Thiên thứ nhất, thuộc đạo Hải Tây. Năm Quang Thuận thứ 10, đặt Nghệ An thừa tuyên gồm 8 phủ, 25 huyện và 2 châu (Xét Thiên Nam dư hạ tập chép: Phủ Đức Quang lãnh 6 huyện…phủ Trà Lân lãnh 4 huyện là Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khanh và Hội Ninh”[8]. Ở đây, Quốc sử quán triều Nguyễn nhận định danh xưng huyện Tương Dương ra đời từ cuộc cải cách hành chính thời nhà Lê. Cụ thể hơn, huyện Tương Dương được đặt tên thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497), niên hiệu Quang Thuận (光順) thứ 10, rơi vào năm 1469. Điều này nghĩa là: Công trình Đại Nam nhất thống chí nhận định danh xưng huyện Tương Dương chính thức ra đời năm 1469.

Để làm rõ hơn cứ liệu này, chúng tôi khảo cứu bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書) do sử thần Ngô Sĩ Liên khảo cứu và biên soạn. Công trình này có đoạn chép như sau: “Kỷ Sửu năm thứ 10 (1469) (Minh Thành Hóa thứ năm). Mùa xuân, tháng 2 nhuận, cấm thiên hạ chứa cất đồ binh khí trong nhà… Mùa hạ, tháng 4… Định bản đồ của phủ châu huyện xã trang sách thuộc 12 thừa tuyên trong nước; Thanh Hoa 4 phủ 16 huyện 4 châu; Nghệ An 9 phủ, 27 huyện, 2 châu”[9].

Về dấu mốc năm 1469 là khởi điểm ra đời danh xưng Tương Dương, công trình Khâm định Việt sử thông giám cươngmục(欽定越史通鑑綱目) làm rõ thêm: “Kỷ Sửu, năm thứ 10 (1469). (Minh, năm Thành Hóa thứ 5). Tháng 2 nhuận, mùa xuân. Cấm tiềm tàng đồ binh khí… Đinh bản đồ trong nước. Nhà vua định bản đồ 12 thừa tuyên… Nghệ An quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu…

II. Nghệ An tám phủ:

- Phủ Đức Quang quản lĩnh 6 huyện: Thiên Lộc, La Sơn, Chân Phúc, Thanh chương, Hương sơn và Nghi Xuân;

- Phủ Diễn Châu quản lĩnh 2 huyện: Đông Thành và Quỳnh Lưu;

- Phủ Anh Đô quản lĩnh 2 huyện: Hưng Nguyên và Nam Đường;

- Phủ Hà Hoa quản lĩnh 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa

- Phủ Trà Lân quản lĩnh 4 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang và Hội Ninh;

- Phủ Quỳ Châu quản lĩnh 2 huyện: Trung Sơn và Thụy Vân;

- Phủ Ngọc Ma quản lĩnh 1 châu: Trịnh Cao;

- Phủ Lâm An quản lĩnh 1 châu: Quy Hợp”[10].

Như vậy, ba công trình sử học chính thống lớn bậc nhất Việt Nam thời trung đại đều có cơ sở cho năm 1496 là dấu mốc ra đời danh xưng huyện Tương Dương ở Nghệ An.

Kết luận

Qua khảo cứu các tư liệu chính sử ở Việt Nam thời trung, cận và hiện đại, tác giả rút ra một vài đặc điểm liên quan đến dnah xưng Tương Dương như sau:

Thứ nhất: Danh xưng huyện Tương Dương đã có trước thời nhà Nguyễn. Giai đoạn 4 vua đầu triều Nguyễn trị vì, huyện Tương Dương đã được đề cập khá nhiều trên các lĩnh vực đối nội của quốc gia Đại Nam. Huyện Tương Duong thường được nhắc đến ở các công trình sử học nổi tiếng biên soạn thời Nguyễn như: Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nghệ An ký, Thanh Chương huyện chí

Thứ hai: Tên gọi huyện Tương Dương được định danh chính thức thời điểm sớm nhất là năm 1469, niên hiệu Quang Thuận thứ 10. Đây cũng là thời gian vua Lê Thánh Tông thực hiện cuộc cải cách hành chính lớn ở Đại Việt.

Thứ ba: Cho đến nay, dựa theo kết quả khảo cứu tư liệu thì tác giả chưa tìm thấy mốc thời gian nào xuất hiện danh xưng huyện Tương Dương ở Nghệ An trước thời Lê Sơ (1427 - 1527).

Thứ tư: Cần phân biệt tên gọi Tương Dương với địa vị hành chính cấp huyện với cấp phủ. Địa danh huyện Tương Dương đã trình bày ở trên, xuất hiện sớm nhất vào năm 1469. Còn địa danh phủ Tương Dương được triều đình phong kiến Việt Nam cắt đặt muộn hơn nhiều, đó là thời nhà nhà Nguyễn. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí có viết: “Phủ Tương Dương: Ở cách tỉnh thành 200 dặm về phía Tây… Đời Trần là Mật Châu, thời thuộc Minh là châu Trà Lung, sau lại đổi là châu Trà Thanh. Đời Lê là phủ Trà Lân, bản triều, đầu đời Gia Long, đặt chức quảng phủ và tri phủ. Năm Minh Mệnh thứ 2 đổi tên hiện nay”[11]. Tên gọi phủ Tương Dương chính thức được cắt đặt từ năm 1822, thời vua Minh Mệnh, triều Nguyễn.

Thứ năm: Danh xưng huyện Tương Dương ra đời đến nay trên 500 năm và ít có sự thay đổi về tên gọi như các huyện khác ở Nghệ An như Thanh Chương, Nam Đàn, Chân Lộc… Riêng về phạm vi lãnh thổ ít nhiều có sự điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh lịch sử dân tộc và tỉnh Nghệ An.

Thứ sáu: Vùng đất huyện Tương Dương có dấu ấn nhất định về địa vị hành chính của mình. Trước hết là được triều đình phong kiến Lê Sơ cắt đặt riêng làm một huyện thuộc phủ Trà Lân lúc đó. Trong tiến trình lịch sử dân tộc hơn 500 năm qua, danh xưng Tương Dương ít có sự điều chỉnh, biến đổi như nhiều địa phương cấp huyện khác.

Huyện Tương Dương ban đầu được liệt vào phủ ki mi Trà Lân. Nghĩa là vùng đất chịu sự ràng buộc lỏng lẻo củ chính quyền trung ương, là nơi biên ải, biên viễn phía Tây Nghệ An cũng như ở phía Nam quốc gia Đại Việt. Đương thời lúc đó, đây là nơi hoang vu, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, điều kiện kinh tế - xã hội hết sức thấp kém. Theo thời gian, đồng bào các dân tộc Thái, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu… đến khai cơ lập nghiệp và định cư lâu dài ở đây. Đến đầu thời Nguyễn, họ đã đưa huyện Tương Dương và các vùng phụ cận phát triển vượt bậc, không còn chênh lệch nhiều so với các phủ, huyện miền xuôi.

Bởi vậy, vua Minh Mệnh và bộ máy quan lại triều đình và trấn Nghệ
An đánh giá rất cao. Năm 1822, họ quyết định lấy tên huyện Tương Dương đặt tên cho phủ là Tương Dương, thay tên gọi Trà Lân. Đến đầu thời vua Tự Đức, triều đình quyết định đưa phủ Tương Dương ra khỏi danh sách các phủ Ki mi ở Nghệ An. Điều này chứng tỏ sự phát triển rất mạnh của huyện Tương Dương cũng như cả phủ, bởi đây là phủ duy nhất ở Nghệ An được triều đình xóa khỏi danh sách các phủ ki mi.

Th.S Nguyễn Tài (Trường THCS Trung Đô)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, 1994.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An, tập 1, Nxb Nghệ An, 2019.

3. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2018.

4. Bùi Dương Lịch, Thanh Chương huyện chí, Nxb Nghệ An, 2007.

5. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, H. 2007.

6. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa Thông tin, H. 2007.

7. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, trọn bộ, Nxb Thời đại, H. 2013.

8. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2006.

9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1,2, Viện Sử học dịch, Nxb Sử học, H. 1962.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục, H. 1998.

11. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 2001.

12. Lê Tắc, An Nam chí lược, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2013.

13. Nguyễn Khánh Toàn, Vài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn Gia Long, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2003.

14. Hà Văn Tấn (Chủ biên), Khảo cổ học Việt Nam, tập 1,2, Nxb Khoa học Xã hội, H. 1998, 1999.

 

 



[1]. Xem thêm: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An, tập 1, Nxb Nghệ An, 2019, Tr. 14.

[2]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2006, Tr. 148.

[3]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2006, Tr. 169.

[4]. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2018, Tr. 43 - 44.

[5]. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2018, Tr. 194.

[6]. Nguyễn Điển, Thanh Chương huyện chí, Nxb Nghệ An, 2007, Tr. 130.

[7]. Bùi Dương Lịch, Thanh Chương huyện chí, Nxb Nghệ An, 2007, Tr. 31 - 32.

[8]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2006, Tr. 135 - 136.

[9]. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, trọn bộ, Nxb Thời đại, H. 2013, Tr. 650 - 651.

[10]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục, H. 1998, Tr. 510 - 512.

[11]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 2006, Tr. 147 - 148.

image
Tin tức
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement