Đi tìm sự xuất hiện của danh xưng Tương Dương từ các tài liệu Thái học
1. Sự xuất hiện của người Thái gắn với danh xưng Nghệ An và Tương Dương
Theo tác giả David Wyatt, trong cuốn “Thailand: A short history”, người Thái xuất xứ từ phía Nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía Nam và Tây Nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Trung tâm của họ khi đó là Mường Thanh (Điện Biên Phủ ngày nay). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở Đông Bắc Ấn Độ cũng như Vân Nam (Trung Quốc) và một số địa phương khác ở Việt Nam.
Theo tổng điều tra dân số năm 2009, người Thái ở Việt Nam có số dân đứng thứ 3 trong số các tộc người Việt Nam với dân số 1.550.423 người ( sau người Kinh 73.594.341 người và người Tày 1.626.392 người). Vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu về người Thái và nơi cư trú của họ là một nhu cầu chính đáng thu hút sự quan tâm của giới khoa học xã hội nhân văn Việt Nam.
Năm 1989Chương trình Thái học Việt Nam ra đời theo đè xuất của 4 nhà dân tộc học là Cầm Trọng, Cầm Cường, Lê Sĩ Giáo và Hoàng Lương và được đặt trong Viện VNH và KHPT của Trường ĐHQG Hà Nội. Với nhận thức Thái học Việt Nam là Việt Nam học trên không gian văn hóa và xã hội môi trường Tày- Thái, Chương trình Thái học chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp dân tộc học với các ngành khoa học xã hội có liên quan như sử học, xã hội học, ngôn ngữ học, văn hóa dân gian, địa lý, môi trường... Đến nay, chương trình đã có 32 nămtriển khai các hoạt động khoa học, chương trình đã hoàn thành nhiều đề tài khoa học có chất lượng chuyên môn cao, tổ chức thành công nhiều cuộc hội thảo, hội nghị khoa học cấp quốc gia, tạo được vị thế trong nền học thuật trong nước, đóng góp vào việc nâng cao nhận thức khách quan và tổng thể về các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày -Thái.
Tại hội thảo khoa học lần thứ 5 được tổ chức năm 2009 tại Điện Biên với chủ đề "Địa danh và những vấn đề lịch sử văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái' trọng tâm của Hội thảo là đi sâu vào nghiên cứu nguồn gốc lịch sử văn hóa các tộc người Tày- Thái qua các di tích, truyền thuyết và nhất là qua tư liệu địa danh Tày Thái. Các vùng Tây Bắc, đặc biệt khu vực Điện Biên, với xứ Mường Thanh được coi là quê gốc của các bộ tộc Thái, vùng Việt Bắc, Thanh Hóa, Nghệ An đều có nhiều bài viết về địa danh và di tích, ngoài ra Hội thảo cũng nhận được nhiều bài viết có liên quan đến ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử...là những ghi chép về về vùng đất và con người nổi tiếng được xếp vào mục có tiêu đề " Những vùng đất và con người qua ký ức dân gian". Những bài viết này đã cung cấp sử liệu, thông tin khách quan xác thực giúp người đọc có thể nhận diện lịch sử, văn hóa các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày-Thái và các địa danh mà người Thái sinh sống gắn liền với lịch sử của các địa phương.
Ở Nghệ An, bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai trò rất quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử cũng như hiện nay là cư dân Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập trung lớn vào loại thứ hai của cả nước (sau Sơn La trên 22 vạn dân). Lịch sử cư trú của người Thái ở miền núi Nghệ An gắn liền với lịch sử danh xưng của những vùng đất này.
Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học thì người Thái có mặt ở Nghệ An từ rất sớm. GS Đặng Nghiêm Vạn cho rằng các nhóm tộc Thái di cư vào đất Nghệ An sớm hơn thế kỉ XI-XII, còn theo học giả người Pháp Chamrberlain thì cho rằng người Thái có mặt ở Nghệ An sớm hơn thế kỉ XI. Những giả thuyết đó được các nhà nghiên cứu đưa ra dựa vào nhiều câu chuyện thiên di, chuyển cư của người Thái gắn với khai phá nên những cánh đồng, những công trình thủy lợi ở Tương Dương cũ (bao gồm cả Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn ngày nay)....Việc phân tích các hiện vật tìm được trong các di chỉ khảo cổ học ở vùng miền núi Nghệ An như: Hang Thẩm Ổm (Quỳ Châu), làng Vạc (Quỳ Hợp), Xiêng Lăm, Xiêng Hương (Tương Dương) cũng đã khẳng định thêm các giả thuyết đó…
Cũng có ý kiến cho rằng, người Thái có mặt ở Nghệ An có thể từ thế kỉ XI- thời nhà Lý, đây là thời kỳ nhà Lý đã đổi Hoan Châu từ thời hậu Lê thành Nghệ An. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb KHXH-2004, tại trang 271- 272, có ghi: Bính Tý, [Thông Thuy] năm thứ 3[1036] (Tống Cảnh Hưu năm thứ 3), sách chép rằng: "Mùa hạ, tháng 4, đặt hành dinh ở châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ây là Nghệ An"[1].
Nhưng phải kể đợt thiên di lớn nhất và ồ ạt nhất của người Thái phải cho đến thế kỷ XIII(thời nhà Trần, lúc này đất Tương Dương xưa được gọi là Mật Châu), theo đường sông Cả và chia làm nhiều đợt khác nhau. Con đường di cư của người Thái vào Nghệ An chủ yếu là từ Tây Bắc qua Thanh Hóa vào Phủ Quỳ, rồi từ Phủ Quỳ di cư sang Con Cuông, Tương Dương; những đợt di cư khác thì từ Tây Bắc qua Lào vào cư trú dọc sông Nậm Nơn,…
Người Thái ở Nghệ An có 3 nhóm chính là Tay Thánh, Tay Mương và Tay Mười. Nguyên nhân của sự phân chia các nhóm, ngành của dân tộc Thái hiện nay vẫn chưa được thống nhất, có sách cho rằng sự phân chia đó dựa vào màu da, có sách lại cho rằng dựa vào đặc điểm quần áo, nhưng cũng có sách lại phân chia dựa vào đặc điểm địa hình cư trú và sinh sống. Ngoài các nhóm được phân chia trên dân tộc Thái còn có các nhóm Tay Khăng, Tay Puộc, Tay Doz.
Nhóm Tay Mương(vùng Tây Bắc gọi là Thái Trắng) là nhóm người Thái có mặt sớm nhất ở miền núi Nghệ An, tập trung chủ yếu ở các huyện Tương Dương (khoảng 90% dân số dân tộc Thái), Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ Hợp. Đây là nhóm có số lượng cư dân đông đúc nhất trong cộng đông dân tộc thái.
Nhóm Tay Thánh (vùng Tây Bắc gọi là Thái Đen) thiên di vào miền núi Nghệ An qua nhiều đường khác nhau, từ Lào qua và từ Thanh Hóa sang, cách đây khoảng 450 năm. Họ di cư và sinh sống dọc tuyến đường 7 (Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn) và một số huyện khác như Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn,…
Nhóm Tày Mười hay còn gọi là Thái Đỏ là nhóm người Thái có mặt muộn nhất so với các nhóm người Thái khác ở miền núi Nghệ An, có nguồn gốc từ Mường Muổi (Thuận Châu, Sơn La). Nhóm Tày Mười di cư vào Nghệ An và sống tập trung chủ yếu ở huyện Tương Dương.
Di cư vào miền núi Nghệ An từ sớm, người Thái tập trung sinh sống và sản xuất chủ yếu thượng nguồn sông Lam, sông Con, sông Hiếu, sông Giăng,.. và các vùng núi thấp, thung lũng, trung du nơi có phù sa các con sông bồi đắp, địa hình bằng phẳng, đồng ruộng rộng lớn,… Nhờ tập quán cư trú đó mà nền sản xuất chủ yếu dân tộc Tháilà trồng lúa nước, một số ít bộ phận ở vùng cao thì làm nương rẫy. Ngoài ra, người Thái còn làm các nghề thủ công trong đó nổi tiếng nhất là dệt thổ cẩm; bên cạnh đó trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc gia cầm. So với các dân tộc ít người khác, người Thái được xem là dân tộc có nền kinh tế phát triển vượt bậc, chỉ đứng sau dân tộc Kinh và đóng góp công lớn trong chiến tranh bảo vệ bờ cõi phía tây Nghệ An, cũng như tham gia vào 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Sách Đại Việt sử ký toàn thứ, tập 1, Nxb KHXH, 2012 có ghi: Vào năm Tân Tỵ(Càn Phù Hữu đạo năm thứ 3. 1041, mùa đông, tháng 11) vua Lý Thái Tông xuống chiếu cho Uy Minh hầu Lý Nhật Quang làm tri châu Nghệ An. GS. Ninh Viết Giao trong cuốn Địa chí huyện Tương Dương có viết: "Riêng trên đất Tương Dương cũ, ông cho khai thác vùng tổng Huyền Lãng huyện Vĩnh Hòa cũ, tức vùng Khe Bố (thuộc xã Tam Quang, Tam Đình) và vùng Cự Đồn thuộc xã Bồng Khê, huyện Con Cuông". Ở Tam Quang, các cư dân người địa phương theo quân của Lý Nhật Quang cùng với các tù bình tiến hành khai hoang, đắp đập để đưa nước vào tưới nương rộng thuộc Bãi Sở, bãi Xa. Làng Mỏ Than (Khe Bố), ngày xưa là đất của bản Phai[2]"[3]. Mùa xuân năm Bính Tuất (1046) Lý Nhật Quang cho mở tuyến đường thượng đạo từ Đô Lương lên biên giới phía tây, chỉ một năm sau vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1047) con đường đã hình thành. Khi giặc Ai Lao sang đánh phá miền tây Nghệ An, Lý Nhật Quang đem quân đi dẹp, nhân dân các bộ tộc ở đây đi theo ngài. Đoàn quân thắng trận trở về, đi qua vùng đất nào cũng được nhân dân chào đón. Hiện nay ở huyện Tương Dương còn dấu tích 3 ngôi đền gắn liền với tên tuổi của Lý Nhật Quang, đó là đền Pàng ở làng Mỏ (Khe Bố), đền Tả Pù (bản Pồ, tức Sơn Hà) và đền Phủ ở bản Lũng xã Tam Thái. Riêng đền Phủ còn gắn với truyền thuyết tạo Khăm Mạc đánh giặc[4]. Sau này, đền Phủ được dùng làm nơi phong sắc cho các chức sắc thuộc phủ Tương Dương[5].
Vào năm Bính Tuất (năm Quang Thuận thứ 7, 1466), vua Lê Thánh Tông cho đặt các đơn vị hành chính trong nước làm 12 đạo thừa tuyên và 1 phủ, trong đó có đạo thừa tuyên Nghệ An[6].
Năm Kỷ Sửu (Quang Thuận thứ 10, 1469), vào tháng 4, vua Lê Thánh Tông quy định bản đồ của phủ, châu, huyện, xã, trang, sách thuộc 12 thừa tuyên. Theo đó vua ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc đạo thừa tuyên Nghệ An: Nghệ An lúc này quản lĩnh 9 phủ, 27 huyện và 2 châu[7]. "Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời qua các đời chép rõ hơn:
"Phủ Trà lân có 4 huyện
- Kỳ Sơn có 9 động.
- Tương Dương có 7 động.
- Hội Ninh (sau này đổi thành Hội Nguyên) có 5 động.
- Vĩnh Khang (sau này đổi thành Vĩnh Hòa) có 8 động."[8]
Đến năm Canh Tuất(Hồng Đức năm thứ 21,1490), vào ngày mồng 4 tháng 4, vua Lê Thánh Tông cho đổi thừa tuyên Nghệ An thành Xứ Nghệ An[9].
Thế kỷ XV, khi Lê Lợi phất cờ diệt giặc Minh, nhiều tù trưởng người Thái ở Tương Dương đã vận động trai tráng theo nghĩa quân Lam Sơn, vận động nhân dân quyên góp lương thực, thực phẩm phục vụ nghĩa quân[10]. Trong cuốn Địa chí huyện Tương Dương, trang 99, GS Ninh Viết Giao có viết: "Như vậy là nghĩa quân thành Huồi xá, nghĩa quân các bản ở Nga My, Xiêng Men, ở Mường Pồ...trên địa bàn Tương Dương đều gia nhập nghĩa quân Lam Sơn".
Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, khi vua áo đỏ Lê Duy Mật dựng binh, các tù trưởng ở Tương Dương đã huy động nhân dân tham gia nghĩa quân vua áo đỏ, giúp vua áo đỏ xây dựng lực lượng khá hùng mạnh, có quân lương đảm bảo có thể chiến đấu lâu dài[11].
Thời nhà Nguyễn, năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc trấn Nghệ An: Trấn Nghệ An có 9 phủ là: Đức Quang, Diễn Châu, Hà Hoa, Anh Đô, Trà Lân, Quỳ Châu, Trấn Ninh, Lâm An, Ngọc Ma và 18 huyện bao gồm: Hương Sơn, Nghi Xuân, Thanh Chương, La Sơn, Châu Lộc, Thiên Lộc, Đông Thành, Quỳnh Lưu, Kỳ Hoa, Thạch Hà, Nam Đường, Hưng Nguyên, Tương Dương, Vĩnh Hòa, Hội Nguyên, Kỳ Sơn, Thúy Vân, Trung Sơn. GS. Ninh Viết Giao trong sách Địa chí huyện Tương Dương đã viết:
" Phủ Trà Lân có 4 huyện:
1. Huyện Tương Dương có 3 tổng: Cẩm Dã, Yên Lòng Bán, Tứ Dương.
2. Huyện Vĩnh Hòa có 3 tổng: Phi Cốc, Thanh Nhuế, Huyền Lãng.
3. Huyện Hội Nguyên có 3 tổng: Bàu Lá, Nga My, Bình Chuẩn.
4. Huyện Kỳ Sơn có 5 tổng: Cổ Khuông, Chiêu Lưu, Nhân Lý, Đỗ Lăng, Hiếu Kiệm.
Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), triều đình nhà Nguyễn đổi phủ Trà lân thành phủ Tương Dương. Hơn 60 năm sau, thời Đồng Khánh (1886-1889), sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược ghi khá đầy đủ tên các tổng xã ở phủ Tương Dương như sau:
Phủ hạt ở phía tây thành tỉnh. Phủ kiêm lý 4 huyện: Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Vĩnh Hòa, Tương Dương. Phủ lỵ đặt ở địa phận xã Chính Yên, tổng Yên Duyệt.
"Phủ có 13 tổng, gồm 24 xã"
1. Huyện Tương Dương: có 3 tổng 7 xã.
- Tổng yên Duyệt (trước đây là Yên Lòng Bán) có 4 xã: xã Chính Yên, xã Chi Khê, xã Thạch Ngạn (còn gọi là Ngàn), xã Mậu Đức.
- Tổng Lục Dã (trước là cẩm Dã) có 2 xã: xã Cẩm Dương và xã Hữu Lễ.
- Tổng Tứ Dương có 1 xã: xã Môn Sơn.
2. Huyện Vĩnh Hòa có 3 tổng 5 xã:
- Tổng Lịch Cốc (trước là Phi Cốc) có 2 xã: Cam lâm và Đôn Phục.
- Tổng Huyền Lãng có 1 xã: xã Quang Lãng.
- Tổng Quang Nhuế có 2 xã: Tam Thái và Thạch Giám.
3. Huyện Hội Nguyên có 3 tổng 3 xã:
- Tổng Bảo Yên (trước là Bầu Lá) có 2 xã: xã Bảo yên và xã Sơn Vĩ.
- Tổng Nga My có 1 xã: xã Nga My.
- Tổng Bình Chuẩn có 2 xã: xã Bình Chuẩn và xã Trịnh Na.
4. Huyện Kỳ Sơn có 4 tổng 7 xã:
- Tổng Chiêu Lưu có 2xã: xã Chiêu Lưu và xã Xá Lượng.
- Tổng Hiếu Kiệm có 1 xã: xã Hiếu Kiệm.
- Tổng Hữu Khuông (trước là Cổ Khuông) có 2xã: xã Hữu Khuông và xã Kim Đa.
- Tổng Mỹ Lý (trước là Nhân Lý) có 2 xã: xã Mỹ Lý và Hòa Lạc"[12]
Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sứ quán triều Nguyễn biên soạn, in năm 1909, đời vua Duy Tân, do Phạn Trọng Điểm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, đã xác định vị trí địa lý của phủ Tương Dương như sau: "cách tỉnh thành 200 dặm về phía tây, đông tây cách nhau 133 dặm, nam bắc cách nhau 190 dặm, phía đông đến huyện Lương Sơn phủ Anh Sơn 33 dặm, phía tay đến địa giới huyện Quảng phủ Trấn Ninh 100 dặm, phía nam đến địa giới huyện Thanh Chương phủ Anh Sơn 100 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Nghĩa Đường phủ Quỳ Châu 90 dặm"[13].
Về trung tâm hành chính, sách Địa chí huyện Tương Dương của GS. Ninh Viết Giao có ghi: "Lỵ sở của phủ Trà lân trong đời lê đầu đời Nguyễn và sau này khi đổi tên là phủ Tương Dương đều đóng ở thành Nam thuộc làng Trầm Hương cũ, xã Chính Yên. Thời thuộc Pháp chuyển lên Cửa Rào"[14].
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, tất cả các phủ đều được gọi là huyện. Cả phủ Tương Dương cũ là một huyện, còn huyện Con Cuông tách ra khỏi Tương Dương vào ngày tháng năm nào thì chưa rõ. Trong cuốn Địa chí huyện Tương Dương, GS. Ninh Viết Giao có viết: "Sách Việt Nam: những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính từ 1945 đến 1947 trang 37 và 38, có ghi một báo cáo lên Chính phủ của Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu IV, ngày 3-12-1949, thì Nghệ An có 12 huyện, trong đó có huyện Con Cuông rồi, huyện Con Cuông bắt đầu có mặt trên bản đồ Tổ quốc trong khoảng thời gian từ cuối namw 1945 cho đến cuối namw 1949"[15]
Ngày 17-5-1961, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 65-CP, chia huyện Tương Dương thành 2 huyện là Kỳ Sơn (gồm 8 xã) và Tương Dương (gồm 9 xã).
Ngày 5-7-1963, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra quyết định số 125-NV, chia xã Yên Na thành 3 xã: xã Yên Na, xã Yên Tĩnh và xã Yên Hòa; chia xã Bình Nga thành 2 xã: xã Nga My và xã Bình Chuẩn.
Ngày 17-4-1965, Bộ trưởng Bộ Nội vụ lại ra quyết định số 143-NV, chia xã Thạch Giám ra thành 2 xã: xã Thạch Giám và xã Tam Thái; chia xã Xá Lượng thành 2 xã: xã Lượng Minh và xã Xá Lượng; chia xã Kim Đa thành 2 xã: xã Kim Đa và xã Kim Tiến; chia xã Hữu Khuông thành 2 xã: xã Hữu Khuông và xã Hữu Dương; chia xã Yên Hòa thành 2 xã: xã Yên Hòa và xã Yên Thắng; chia xã Chiêu Lưu thành 2 xã: xã Chiêu Lưu và xã Lưu Kiền; chia xã Tam Quang thành 2 xã: xã Tam Quang và xã Tam Đình.
Ngày 13-11-1986, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 139-HĐBT, chia xã Luân Mai thành 3 xã: xã Luân Mai, xã Mai Sơn và xã Nhôn Mai; chia Tam Thái thành 2 xã: xã Tam Thái và xã Tam Hợp.
Ngày 22-7-1989, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 92-HĐBT, thành lập thị trấn Hòa Bình.
Ngày 02-4-2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2007/NĐ-CP, chia tách xã Nga My thành 2 xã: xã Nga My và xã Xiêng My.
Ngày 09-02-2009, Chính Phủ ban hành Nghịd dịnh số 07/NĐ-CP, giải thể 4 xã thuộc huyện Tương Dương: xã Kim Đa, xã Kim Tiến, xã Hữu Dương và xã Nhôn Mai; điều chỉnh lại địa giới hành chính các xã Mai Sơn, Nhôn Mai, Hữu Khuông, Lượng Minh và Yên Na.
Ngày 17-12-2019, UBTV Quốc hội ban hành Nghị quyết số 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An. Thành lập thị trấn Thạch Giám trên cơ sở sáp nhập thị trấn Hòa Bình và xã Thạch Giám[16]. Sau khi sắp xếp lại, huyện Tương Dương có 17 đơn vị hành chính, gồm 16 xã và 1 thị trấn.
2. Đi tìm danh xưng Tương Dương trong các văn bản chữ Lai Pao xưa.
Người Thái ở Nghệ An thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, có ngôn ngữ và chữ viết riêng là chữ Lai Tay hay Lai Pao.Nhờ có chữ viết riêng, văn học dân gian Thái phát triển và còn lưu giữ đến tận bây giờ. Không những thế, nhờ có chữ viết riêng mà việc quản lý xã hội của người Thái cũng tốt hơn rất nhiều so với các dân tộc ít người khác[17].
Chữ Lai Pao là chữ viết riêng của dân tộc Thái nhóm Tay Mương (cư trú ở thượng nguồn sông Cả- người Thái gọi là Nặm Pao). Chữ Lai Pao có 71 ký tự bao gồm 46 phụ âm, 20 nguyên âm và 5 ký tự dấu thanh. Quá trình tiếp cận chữ Lai Pao chúng tôi đã hình dung một phần về tên gọi của mảnh đất Tương Dương này.



Bản kế ước về việc cầm cố đất viết ngày 15-02 -1872 (năm Tự Đức thứ 25)
Không biết chữ Lai Pao xuất hiện từ bao giờ, nhưng theo một số chuyên gia nghiên cứu ngôn ngữ của Pháp như: Théodore Guignard (1912) và Micchel Ferlus (1991) thìloại chữ cổ này đã xuất hiện ở thượng nguồn sông Cả này từ rất lâu. Năm 1912 khi tiếp cận chữ Lai Pao qua 2 trí thức người Thái, Théodore Guignard đã cảnh báo rằng: "Rất có thể sau 2 nhà trí thức này không còn người đọc và viết chữ Lai Pao nữa"[18] Cũng có ý kiến cho rằng chữ Thái (bao gồm chữ Lai Pao và Lai Tay, hay Lai xứ Thanh) xuất hiện đồng thời với sự có mặt của các cư dân Thái trên đất Nghệ An. Có ý kiến cho rằng, người Thái xưa đã lấy các ký tự để làm căn cứ quy định cát cứ địa lý mà các nhóm cư dân Thái sinh sống. Nhóm cư dân Tay Mương sống dọc theo con sông Cả thì dùng chữ Lai Pao; còn nhóm cư dân Thái cư trú ở Tây bắc Nghệ An thì dùng chữ Lai Tay....
Trong quá trình nghiên cứu sự hình thành và tồn tại của chữ Lai Pao, tuy các văn bản ghi chép bằng chữ Lai Pao hầu như không còn lưu truyền trong dân gian do cuộc sống du canh du cư hoặc do chiến tranh, một trong số văn bản chúng tôi có được là một bản khế ước về việc cầm cố đất[19]. Đây là văn bản chữ Thái cổ xưa nhất do cụ Lô Văn Liệu, nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Tương Dương tìm thấy và dùng 20 nén bạc mua về (năm 1946) lưu giữ trong nhà (xem hình ở phía trên).
Bản cầm cố đất này do quan tri huyện Hội Nguyên, viết gửi quan tri phủ Tương Dươngxin cầm cố một số đất để đổi lấy 20 nén bạc về chi tiêu.
3. Lời kết:Danh xưng Tương Dương đã xuất hiện từ năm Quang Thuận thứ 10(tháng 4 năm 1469- Kỷ Sửu) đến nay đã là 552 năm. Do tiếp cận nguồn tư liệu chưa nhiều, người viết chỉ đưa những giả thuyết như vậy, các nhà nghiên cứu khác có thể tiếp cận được nhiều tài liệu, nhiều nguồn thông tin khác nhau sẽ làm sáng tỏ hơn về danh xưng Tương Dương. Điều đó góp phần vào việc giáo dục truyền thống cho cán bộ và nhân dân các dân tộc huyện Tương Dương, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng vùng đất này ngày một phồn vinh, là phên dậu vững chắc phía Tây của tỉnh Nghệ An.
Vi Tân Hợi
[1] Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Hồng Bàng, 2012, tr 260 cũng chép: "Bính Tý, Thông Thụy năm thứ 3 [1036](Tống Cảnh Hựu năm thứ 3), mùa hạ, tháng tư, đặt hoành danh ở Châu Hoan và đổi tên châu ấy là châu Nghệ An".
[2] Phai theo tiếng Thái nghĩa là đập
[3] Ninh Viết Giao, Sđ d, tr 87.
[4] Truyền thuyết về tạo Khăm Mạc lưu truyền trong dân gian ở Tương Dương rất giống với Lý Nhật Quang. Khi tạo Khăm Mạc chết nhân dân địa phương đã lập đền thờ ông.
[5] Hiện nay trong nhà một số hộ dân ở Tam Thái avãn còn lưu giữ một số bản phong sắc viết bằng chữ Hán Nôm.
[6] Dại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr 438, Nxb KHXH, 2004 (mộc bản mặt 25a) ghi: "Đặt 13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô
[7] Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr 464, Nxb KHXH, 2004.
[8] Ninh Viết Giao, Địa Chí huyện Tương Dương, tr29-30, Nxb VHDT, 2012.
[9] Đại Việt sử ký toàn thứ, tập 2, tr 538 ghi:" Mùa hạ, tháng 4, ngày 4, xác định bản đồ 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 20 hương, 36 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường.
[10] Ở xã Mai Sơn hiện nay vẫn còn dấu tích thành Huồi Xá trên núi Pu Lôn, đây là thành lũy của một tù trưởng người Thái.
[11] Các đồn, các tù trưởng thông tin với nhau bằng những mật thư (có thể viết bằng chữ Lai Pao).
[12] Ninh Viết Giao, Địa chí huyện Tương Dương, tra 31-32.
[13] Ninh Viết Giao, Sđ d, tr 32.
[14]Ninh Viết Giao, Sđ d, tr 34.
[15] Ninh Viết Giao, Sđ d, tr 34.
[16] Nhập 67,70 km2 diện tích tự nhiên, 3.900 người của xã Thạch Giám và toàn bộ 1,60 km2 diện tích tự nhiên, 3.700 người của thị trấn Hòa Bình. Sau khi thành lập thị trấn Thạch Giám có 69,30 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.600 người.
[17] Ở miền núi Nghệ An lưu hành nhiều loại chữ viết khác nhau như chữ Lai Pao, Lai xứ Thanh, Lai Tay, chữ Lào và cả chữ Hán Nôm. các văn bản liên quan đến việc phong sắc ở Đền Phủ (bản Lũng, xã Tam Thái) chủ yếu là chữ Hán Nôm.
[18]Giới thiệu về chữ Lai Pao của người Thái Tương Dương (Nghệ An) của GS.TS. Trần Trí Dõi, Trường Đại học KHXH và NV và M.Ferlus, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp.
[19] Theo GS. Michel Ferlus (năm 1991) thì các tài liệu viết bằng chữ Lai Pao chỉ còn ở trong một số thư viện của Pháp